Dân tộc thiểu số – Saoviet.info https://saoviet.info Trang tin tức sao Việt Wed, 24 Sep 2025 14:00:37 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/saoviet.info/2025/08/saoviet-ico.svg Dân tộc thiểu số – Saoviet.info https://saoviet.info 32 32 Mở lớp học xóa mù chữ cho phụ nữ dân tộc thiểu số ở vùng cao https://saoviet.info/mo-lop-hoc-xoa-mu-chu-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-o-vung-cao/ Wed, 24 Sep 2025 14:00:33 +0000 https://saoviet.info/mo-lop-hoc-xoa-mu-chu-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-o-vung-cao/

Ở các xã vùng cao của tỉnh Hòa Bình, như Bao La, Tân Pheo, Đà Bắc, những lớp học đặc biệt được tổ chức sau mỗi mùa gặt, thu hút sự tham gia của hàng chục phụ nữ dân tộc Mường, Dao, Thái. Họ cùng nhau ngồi lắng nghe giảng viên dạy từng nét chữ đầu tiên. Đây là những lớp “giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ”, một phần trong nỗ lực xóa mù chữ và nâng cao năng lực học tập cộng đồng do Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hòa Bình phối hợp tổ chức.

Từ năm 2020 đến nay, đã có 6 lớp như vậy được mở, với 125 học viên, 100% là nữ và là người dân tộc thiểu số. Họ đến lớp không vì điểm số, không vì bằng cấp mà vì một điều giản dị: Biết đọc tên mình, biết viết đơn xin vay vốn, hiểu những dòng chữ in trên bao thuốc trừ sâu hay đơn khám bệnh.

Bà Hà Thị Nhung, người dân tộc Thái ở xã Bao La, đã bắt đầu một hành trình mới – học chữ ở tuổi ngũ tuần. Trước kia, mỗi lần đi trạm y tế hay nhận hỗ trợ, bà đều phải nhờ người khác điền giúp giấy tờ. Có khi, cán bộ bảo ký tên, bà chỉ biết cười trừ, đưa ngón tay ra lăn dấu. “Tôi xấu hổ lắm. Đến tên mình cũng không viết nổi”, bà Nhung chia sẻ.

Cơ hội đến khi Trung tâm học tập cộng đồng xã Bao La mở lớp học sau biết chữ vào buổi tối, tranh thủ khi người dân đã thu hoạch xong mùa vụ. Lớp học nhỏ, chỉ có một chiếc bàn gỗ dài và những cuốn vở đã ngả màu theo tay học viên. Nhưng với bà Nhung, đó là thế giới khác – nơi bà bắt đầu nhận diện lại chính mình qua từng con chữ.

Tính đến nay, các xã khu vực Hòa Bình cũ đạt tỷ lệ nữ biết chữ là 99,81%, trong đó nữ dân tộc thiểu số và miền núi đạt 99,64% – vượt xa mục tiêu 93% được đặt ra trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030. Đây không chỉ là một thành tích trong lĩnh vực giáo dục mà còn là kết quả của quá trình kiên trì xóa mù chữ, giáo dục tiếp tục sau biết chữ và xây dựng mô hình học tập cộng đồng bền vững.

Tuy nhiên, biết chữ không đơn thuần là đích đến mà là điểm khởi đầu cho một hành trình dài hơi – hành trình trao quyền, xây dựng năng lực tự chủ cho người phụ nữ. “Khi người phụ nữ biết đọc, biết viết, họ có thể tiếp cận thông tin, hiểu quyền lợi, chủ động trong kinh tế gia đình và chăm sóc con cái. Quan trọng hơn, họ trở thành người truyền cảm hứng học tập trong bản làng, nơi mà việc cầm bút, đi học với phụ nữ từng là điều xa lạ, thậm chí bị cho là ‘không cần thiết'” – Ông Trần Văn An – Trưởng Phòng Giáo dục thường xuyên, Sở Giáo dục và Đào tạo chia sẻ.

Dù kết quả đạt được rất đáng ghi nhận, nhưng thực tế ở các xã vùng cao vẫn đặt ra không ít thách thức. Ở một số địa bàn đặc biệt khó khăn, việc duy trì kết quả sau xóa mù chữ chưa thật sự ổn định. Nhiều phụ nữ lớn tuổi quanh năm bám nương, ít có điều kiện tiếp cận thông tin vẫn đang đối mặt nguy cơ tái mù.

Những bước đi căn cơ đang dần được triển khai để đảm bảo “biết chữ” không chỉ là thành tích mà phải là nền móng cho sự phát triển. Từ năm 2025, Trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình được giao nhiệm vụ đưa các nội dung về giới, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vào chương trình đào tạo giáo viên. Cùng với đó, các trung tâm học tập cộng đồng ở cơ sở cũng đang được mở rộng vai trò. Từ chỗ chỉ dạy chữ sang hướng dẫn kỹ năng sản xuất, sử dụng công nghệ số, khởi nghiệp tại chỗ… Đây là bước đi cho thấy chương trình xoá mù, nâng cao năng lực cộng đồng không chỉ truyền đạt con chữ, mà còn giúp thay đổi tư duy, cách nghĩ, cách làm của đồng bào dân tộc thiểu số.

Từ một chương trình xóa mù chữ ban đầu, Hòa Bình đang chuyển mình từng bước để làm cho “học tập suốt đời” trở thành hiện thực ở cả những bản làng xa nhất. Và ở đó, mỗi người phụ nữ biết chữ, dù chỉ một câu, một dòng, cũng đang viết nên phần tương lai tươi sáng hơn của chính mình.

]]>
Đắk Lắk: Thưởng thức miễn phí món ăn độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số https://saoviet.info/dak-lak-thuong-thuc-mien-phi-mon-an-doc-dao-cua-dong-bao-dan-toc-thieu-so/ Fri, 19 Sep 2025 07:45:37 +0000 https://saoviet.info/dak-lak-thuong-thuc-mien-phi-mon-an-doc-dao-cua-dong-bao-dan-toc-thieu-so/

Ngày 26-7, tại xã Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk đã diễn ra sôi nổi hội thi nấu ăn với các món ăn truyền thống của người đồng bào dân tộc thiểu số. Sự kiện này được tổ chức nhằm chào mừng 78 năm ngày Thương binh – Liệt sĩ (27-7), thể hiện sự quan tâm và tri ân của cộng đồng đối với những người đã hy sinh và đóng góp cho Tổ quốc.

Hội thi nấu ăn là hoạt động thiết thực, nhằm tôn vinh và bảo tồn những giá trị văn hóa ẩm thực truyền thống của các dân tộc thiểu số. Các món ăn được chế biến theo phương pháp truyền thống, không chỉ mang lại hương vị đặc trưng của từng dân tộc mà còn thể hiện sự đoàn kết và giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng dân tộc thiểu số tại Đắk Lắk.

Thông qua hoạt động này, người dân địa phương và du khách có cơ hội trải nghiệm và tìm hiểu sâu sắc hơn về phong tục tập quán, cũng như sự đa dạng văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Hội thi cũng là dịp để người dân địa phương và du khách thưởng thức những món ăn truyền thống, giao lưu văn hóa và tăng cường sự hiểu biết, đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc.

Với sự tham gia của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số tại Đắk Lắk, hội thi nấu ăn đã trở thành một hoạt động văn hóa phong phú và ý nghĩa, thể hiện sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam. Sự kiện này cũng góp phần quảng bá những giá trị văn hóa ẩm thực truyền thống của các dân tộc thiểu số đến với công chúng, cũng như kêu gọi sự quan tâm và bảo tồn những giá trị văn hóa quý báu này.

Một số món ăn truyền thống của người đồng bào dân tộc thiểu số tại Đắk Lắk đã được trình bày và giới thiệu tại hội thi, như món thịt lợn luộc trong ống lồ, cơm ní nuốt, rượu cần… Mỗi món ăn đều mang lại hương vị và giá trị văn hóa đặc trưng của từng dân tộc.

]]>
Bí thư Đảng ủy xã Thượng Trạch: Dẫn dắt vùng biên vượt khó https://saoviet.info/bi-thu-dang-uy-xa-thuong-trach-dan-dat-vung-bien-vuot-kho/ Tue, 16 Sep 2025 22:00:55 +0000 https://saoviet.info/bi-thu-dang-uy-xa-thuong-trach-dan-dat-vung-bien-vuot-kho/

Đồng chí Nguyễn Quốc Hạnh, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Thượng Trạch, tỉnh Quảng Trị, đã có một hành trình công tác đầy thử thách và gian khổ, từ Văn phòng Tỉnh ủy đến huyện Bố Trạch và cuối cùng là xã Thượng Trạch. Tại mỗi vị trí, đồng chí Hạnh đều nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Bí thư Đảng ủy xã Thượng Trạch Nguyễn Quốc Hạnh trao hỗ trợ con giống, tạo sinh kế cho bà con xã Thượng Trạch - Ảnh: L.M
Bí thư Đảng ủy xã Thượng Trạch Nguyễn Quốc Hạnh trao hỗ trợ con giống, tạo sinh kế cho bà con xã Thượng Trạch – Ảnh: L.M

Khi còn là Trưởng ban Dân vận Huyện ủy Bố Trạch, đồng chí Hạnh đã tích cực tham mưu công tác dân vận của Đảng, đặc biệt là trong công tác phòng, chống đại dịch COVID-19 và thực hiện hiệu quả các phong trào thi đua, mô hình dân vận khéo. Nổi bật trong thời gian này là mô hình dân vận khéo ‘Mỗi xã giúp mỗi bản’, giúp đồng bào dân tộc thiểu số phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần.

Một góc xã Thượng Trạch - Ảnh: L.M
Một góc xã Thượng Trạch – Ảnh: L.M

Với vai trò là Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Bố Trạch, đồng chí Hạnh đã chủ động tham mưu và tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa, như phát động ủng hộ các tỉnh phía Bắc khắc phục hậu quả cơn bão số 3 và huy động nguồn lực để xây dựng 272 ngôi nhà cho các hộ nghèo, cận nghèo. Những đóng góp của đồng chí Hạnh đã giúp huyện Bố Trạch đạt được nhiều thành tựu trong công tác dân vận và xóa đói, giảm nghèo.

Khi được điều động lên xã Thượng Trạch, đồng chí Hạnh đã nhanh chóng thích nghi và cùng hệ thống chính trị của xã triển khai vận hành chính quyền 2 cấp một cách bài bản. Đồng chí chia sẻ rằng việc điều động về xã Thượng Trạch không phải là ‘bước lùi’ mà là cơ hội để cống hiến một cách trực tiếp và gần dân nhất. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là việc thay đổi tư duy cán bộ và xây dựng chính quyền không thụ động, đồng chí Hạnh đã thể hiện sự quyết tâm và năng lực lãnh đạo.

Với sự tâm huyết và sáng tạo, đồng chí đã và đang tiếp tục đóng góp cho sự phát triển của xã Thượng Trạch, đặc biệt là trong việc nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng chí Hạnh cũng nhấn mạnh rằng công tác dân vận và xây dựng chính quyền cần phải được thực hiện một cách linh hoạt và sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.

Nhìn chung, đồng chí Nguyễn Quốc Hạnh đã có một hành trình công tác đầy ấn tượng, với nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển của các địa phương mà đồng chí đã từng công tác. Với tinh thần chủ động, sáng tạo và quyết tâm cao, đồng chí sẽ tiếp tục là một nhà lãnh đạo gương mẫu, góp phần xây dựng xã Thượng Trạch ngày càng phát triển.

]]>
Đồng Nai: Tuyển sinh vượt chỉ tiêu, trường dạy nghệ thuật dành cho thanh thiếu niên dân tộc thiểu số https://saoviet.info/dong-nai-tuyen-sinh-vuot-chi-tieu-truong-day-nghe-thuat-danh-cho-thanh-thieu-nien-dan-toc-thieu-so/ Sun, 31 Aug 2025 01:16:15 +0000 https://saoviet.info/dong-nai-tuyen-sinh-vuot-chi-tieu-truong-day-nghe-thuat-danh-cho-thanh-thieu-nien-dan-toc-thieu-so/

Trường trung cấp Văn hóa nghệ thuật Đồng Nai đã đạt được một mốc son đáng nhớ trong mùa tuyển sinh năng khiếu nghệ thuật năm 2025. Với số lượng học sinh đăng ký theo học vượt xa chỉ tiêu đề ra, trường đã cho thấy một tín hiệu tích cực về xu hướng theo đuổi nghệ thuật chuyên nghiệp của giới trẻ, đặc biệt là con em của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Theo kế hoạch tuyển sinh năm học 2025-2026, trường đã đề ra chỉ tiêu tuyển sinh 80 học sinh cho các chuyên ngành âm nhạc truyền thống, âm nhạc phương Tây, thanh nhạc và múa. Trong đợt 1, nhà trường đã tuyển được 77 học sinh, và trong đợt 2, có 140 em đăng ký theo học. ThS Phùng Ngọc Long, Hiệu trưởng Trường trung cấp Văn hóa nghệ thuật Đồng Nai, cho biết số lượng học sinh đăng ký vào chuyên ngành âm nhạc truyền thống đã tăng cao. Năm nay, các chuyên ngành múa và thanh nhạc cũng có số lượng học sinh đăng ký nhiều hơn so với các năm trước.

Điều này cho thấy định hướng theo đuổi nghệ thuật đang dần nhận được sự quan tâm từ học sinh và gia đình. Nhà trường cũng đã có kế hoạch đi thực tế, khảo sát địa bàn các xã và tuyển sinh một số học sinh vùng đồng bào các dân tộc và vùng biên giới. Đây là bước “tiền trạm”, khởi đầu để năm học tới nhà trường sẽ triển khai tuyển sinh năng khiếu nghệ thuật tại 95 phường, xã.

Đồng Nai là địa phương có đông đồng bào dân tộc sinh sống. Nhà trường mong muốn phát hiện và bồi dưỡng những năng khiếu nghệ thuật, nhất là các chuyên ngành âm nhạc truyền thống. Qua đó, tạo điều kiện cho các em được tiếp cận môi trường đào tạo nghệ thuật bài bản, có cơ hội phát triển theo con đường chuyên nghiệp. Việc này không chỉ giúp bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nghệ thuật của các dân tộc, mà còn góp phần xây dựng một thế hệ nghệ sĩ trẻ tài năng và đam mê.

Nhìn chung, sự gia tăng đáng kể trong số lượng học sinh đăng ký theo học tại Trường trung cấp Văn hóa nghệ thuật Đồng Nai là một tín hiệu đáng mừng. Điều này cho thấy sự quan tâm ngày càng tăng của giới trẻ đối với lĩnh vực nghệ thuật, cũng như mong muốn của họ được tiếp cận với môi trường đào tạo chuyên nghiệp.

Trong thời gian tới, Trường trung cấp Văn hóa nghệ thuật Đồng Nai sẽ tiếp tục cố gắng để nâng cao chất lượng đào tạo, cũng như mở rộng quy mô tuyển sinh để đáp ứng nhu cầu của học sinh. Nhà trường hy vọng sẽ tìm được những tài năng trẻ và giúp họ phát huy năng khiếu của mình.

Thông tin liên hệ .

]]>
Tấm gương chị Út Tịch – biểu tượng bất tử của người phụ nữ vùng thiểu số Nam Bộ https://saoviet.info/tam-guong-chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-vung-thieu-so-nam-bo/ Sat, 30 Aug 2025 19:00:59 +0000 https://saoviet.info/tam-guong-chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-vung-thieu-so-nam-bo/

Chị Út Tịch – Một Biểu Tượng Bất Tử Của Người Phụ Nữ Vùng Dân Tộc Thiểu Số Nam Bộ

Chị Út Tịch, tên thật là Nguyễn Thị Út, sinh năm 1931 tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, đã trở thành một biểu tượng bất tử của người phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở Nam bộ trong cuộc chiến tranh giữ nước và dựng nước. Cuộc đời của chị là một bản anh hùng ca về lòng yêu nước, sự kiên trung và hy sinh cao cả. Với những cống hiến của chị, tên của chị đã được ghi vào lịch sử như một biểu tượng của sự hy sinh và lòng yêu nước không giới hạn.

Chị Út Tịch mồ côi mẹ từ nhỏ và phải tự mình đi bán chè, gánh nước, mót lúa để sinh nhai. Sau khi lấy chồng, chị có 6 người con và là điển hình của mẫu người phụ nữ ‘không thích nói nhiều, đã nói là làm, làm bằng được, làm tới chết’. Chồng chị, ông Lâm Văn Tịch, là người dân tộc Khmer, cũng là cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Sau khi ông Tịch bị địch sát hại, chị quyết định bồng con lên rừng, xin vào đội du kích để tiếp tục chiến đấu cho độc lập và tự do của dân tộc.

Với hành trang đơn sơ, chị Út Tịch đã chiến đấu qua muôn vàn gian khổ, không rời hàng ngũ dù có người khuyên chị nên về chăm sóc các con nhỏ. Chị không phải là người phụ nữ đầu tiên ra chiến trận, cũng không phải người duy nhất hy sinh, nhưng trong chị có đủ đầy cả tình mẹ, tình vợ, tình dân, tình đồng đội và tình yêu Tổ quốc. Sự kiên trung và lòng yêu nước của chị đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ phụ nữ Việt Nam.

Khi chị ngã xuống ở trận đánh năm 1968, con gái út của chị mới lên 3. Không có lễ tang rầm rộ, không kèn trống, không huy chương, nhưng hàng nghìn phụ nữ miền Tây đã khóc chị. Sự ra đi của chị đã để lại nỗi mất mát sâu sắc cho đồng đội và nhân dân, nhưng cũng là minh chứng cho sự kính trọng và biết ơn của người dân đối với những người phụ nữ đã hy sinh cho độc lập và tự do của dân tộc.

Chị Út Tịch không chỉ là một biểu tượng cách mạng mà còn là một hình bóng máu thịt trong đời sống của bà con miền Tây. Tượng đài chị Út Tịch được đúc bằng đồng, đặt tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, là minh chứng cho sự kính trọng và biết ơn của người dân. Ngày nay, vẫn có nhiều người phụ nữ tiếp nối bước chân chị Út Tịch, không mang súng ra trận nhưng không lùi bước trước những thử thách mới của thời bình.

Họ là những người phụ nữ dân tộc thiểu số, từng bước vươn lên từ vùng căn cứ cách mạng, như chị Thạch Thị Thu Hà, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Vĩnh Long, hay chị Nguyễn Thị Nhiền, Chủ tịch UBND xã Phong Thạnh. Họ đã chứng minh rằng phụ nữ vùng căn cứ không phải là điểm yếu mà là điểm tựa để giữ Đảng, giữ nước và giữ niềm tin nhân dân.

Trong thời đại hiện nay, với những thách thức mới, cần có chiến lược hỗ trợ những ‘Út Tịch thời bình’ để họ có thể phát triển và vươn lên. Cụ thể, cần thiết lập Chương trình hành động quốc gia ‘Phụ nữ vùng căn cứ phát triển bền vững giai đoạn 2025-2035’, thành lập Quỹ ‘Ngọn lửa Út Tịch’ hỗ trợ phụ nữ vượt khó ở vùng đặc biệt khó khăn, bổ sung vào giáo trình và truyền thông đại chúng các hình tượng phụ nữ cách mạng tiêu biểu, và tổ chức hội thảo cấp quốc gia về ‘Phụ nữ vùng căn cứ – Từ lịch sử đến chính sách’.

Với những nỗ lực này, hy vọng rằng sẽ có nhiều người phụ nữ vùng căn cứ tiếp tục phát triển và vươn lên, trở thành những điểm tựa quan trọng cho sự phát triển của cộng đồng và đất nước.

]]>
Thái Nguyên: Phát triển kinh tế – xã hội cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi https://saoviet.info/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/ Fri, 29 Aug 2025 10:01:46 +0000 https://saoviet.info/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/

Trong những năm gần đây, tỉnh Thái Nguyên đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, tỉnh đã cải thiện đáng kể hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực. Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới. Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống. Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số.

Một số sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực. Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế… Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện. Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa.

Thế nhưng, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng.

Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Trung ương Hội LHPN: Đẩy mạnh công tác hội và phong trào phụ nữ tại Tuyên Quang https://saoviet.info/trung-uong-hoi-lhpn-day-manh-cong-tac-hoi-va-phong-trao-phu-nu-tai-tuyen-quang/ Sat, 09 Aug 2025 16:46:37 +0000 https://saoviet.info/trung-uong-hoi-lhpn-day-manh-cong-tac-hoi-va-phong-trao-phu-nu-tai-tuyen-quang/

Ngày 25/7, tại Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Tuyên Quang, Đoàn công tác Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tiến hành kiểm tra và giám sát hoạt động ủy thác, cũng như nắm bắt tình hình hoạt động công tác hội và phong trào phụ nữ tại tỉnh Tuyên Quang. Sự kiện có sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo, bao gồm Ma Thế Hồng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh; Trần Lan Phương, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh; và đại diện từ các sở, ngành liên quan.

Đồng chí Trần Lan Phương, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát biểu tại buổi làm việc.
Đồng chí Trần Lan Phương, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát biểu tại buổi làm việc.

Sau quá trình hợp nhất tỉnh, bộ máy các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Tuyên Quang đã được kiện toàn và sắp xếp ổn định, đảm bảo hoạt động thông suốt. Hội hiện có trên 335 nghìn hội viên, trong đó hơn 60% hội viên là đồng bào dân tộc thiểu số. Các hoạt động trọng tâm và phong trào thi đua yêu nước đã được điều chỉnh linh hoạt, tích hợp nội dung phù hợp với tình hình thực tế. Hoạt động nhận ủy thác với ngân hàng và các tổ chức tín dụng được triển khai đồng bộ, giúp hội viên phát triển kinh tế.

Đồng chí Ma Thế Hồng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh phát biểu tại buổi làm việc.
Đồng chí Ma Thế Hồng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh phát biểu tại buổi làm việc.

Tính đến ngày 30/6, dư nợ qua Ngân hàng CSXH tỉnh đạt hơn 3.000 tỷ đồng, qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hơn 1.500 tỷ đồng, nguồn vốn Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh tăng trưởng tích cực. Hoạt động của các tổ tiết kiệm và vay vốn ở cơ sở ngày càng phát huy hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng quản lý và giám sát sử dụng vốn vay.

Tại buổi làm việc, đại diện các đơn vị đã trao đổi và thảo luận về những vấn đề vướng mắc và khó khăn trong việc thực hiện hoạt động Hội, cũng như khó khăn trong hoạt động nhận ủy thác cho vay vốn trong bối cảnh các cấp Hội vừa vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.

Phát biểu tại buổi làm việc, đồng chí Ma Thế Hồng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, đã đánh giá cao tinh thần chủ động và quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo của Hội trong việc bám sát Nghị quyết Đại hội Phụ nữ các cấp và chỉ đạo của Trung ương Hội. Đồng chí đề nghị lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh chỉ đạo sát sao, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của Hội LHPN cấp cơ sở; đảm bảo nội dung chất lượng, đổi mới, thực tiễn, sát với yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Qua buổi kiểm tra và trao đổi trực tiếp tại cơ sở, đồng chí Trần Lan Phương, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, đã đánh giá cao kết quả đạt được trong công tác Hội và kết quả thực hiện việc cho vay ủy thác tại địa phương. Đồng chí đề nghị Hội LHPN tỉnh tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách về tín dụng xã hội đến hội viên, phụ nữ, nhất là tại các địa bàn mới sau sáp nhập; triển khai tập huấn nghiệp vụ công tác hội; hỗ trợ hội viên sử dụng hiệu quả vốn vay thông qua các hoạt động hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, tạo việc làm bền vững, góp phần phát triển kinh tế – xã hội.

]]>
ANTV phanh phui chiêu trò của các thế lực thù địch, tổ chức lưu vong kích động ly tâm https://saoviet.info/antv-phanh-phui-chieu-tro-cua-cac-the-luc-thu-dich-to-chuc-luu-vong-kich-dong-ly-tam/ Fri, 08 Aug 2025 14:31:36 +0000 https://saoviet.info/antv-phanh-phui-chieu-tro-cua-cac-the-luc-thu-dich-to-chuc-luu-vong-kich-dong-ly-tam/

Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch và tổ chức lưu vong Mông đã lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để tăng cường các hoạt động kích động và tuyên truyền ý tưởng về tự trị ly khai trong số các dân tộc thiểu số. Điều này đã tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định và an ninh của khu vực.

Đặc biệt, tại các khu vực cao nguyên, vùng sâu vùng xa và các khu vực xa xôi thuộc các tỉnh biên giới phía Bắc, hoạt động tuyên truyền này đang ngày càng trở nên phổ biến. Những thế lực này đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết và sự bất mãn của một số người dân trong khu vực để tuyên truyền những ý tưởng sai trái và kích động họ tham gia vào các hoạt động ly khai.

Đài ANTV, một kênh truyền thông được tài trợ toàn phần hoặc một phần bởi Chính phủ Việt Nam, đã đưa tin về vấn đề này trong chương trình ‘Quan điểm sự thật’ với tiêu đề ‘Sự hoang tưởng của người lưu vong về một quốc gia trên cao nguyên đá’. Chương trình này đã cung cấp một cái nhìn sâu sắc về vấn đề và giúp người dân hiểu rõ hơn về những mưu đồ của các thế lực thù địch.

Theo Đài ANTV, những người lưu vong Mông đã lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để tuyên truyền những ý tưởng về tự trị ly khai và tạo ra những hoang tưởng về một quốc gia trên cao nguyên đá. Tuy nhiên, những ý tưởng này không có cơ sở thực tế và chỉ nhằm mục đích kích động và chia rẽ các dân tộc thiểu số.

Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần khẳng định cam kết bảo vệ quyền lợi và phát triển của các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, những hoạt động tuyên truyền của các thế lực thù địch và tổ chức lưu vong Mông đã tạo ra những thách thức cho công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước.

Trước những thách thức này, việc tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức của người dân về những mưu đồ của các thế lực thù địch là rất cần thiết. Đồng thời, chính quyền các cấp cần tăng cường công tác quản lý và giám sát để ngăn chặn những hoạt động tuyên truyền sai trái và bảo đảm an ninh trật tự của khu vực.

Người dân cần được tiếp cận với những thông tin chính xác và tin cậy để không bị lừa đảo và kích động. Việc tuyên truyền về những vấn đề này cần được thực hiện một cách nghiêm túc và có trách nhiệm để giúp người dân hiểu rõ hơn về những vấn đề liên quan.

Tóm lại, các thế lực thù địch và tổ chức lưu vong Mông đã lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để tuyên truyền những ý tưởng về tự trị ly khai trong số các dân tộc thiểu số. Việc tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức của người dân là rất cần thiết để ngăn chặn những hoạt động tuyên truyền sai trái và bảo đảm an ninh trật tự của khu vực. Chương trình ‘Quan điểm sự thật’ của Đài ANTV đã cung cấp một cái nhìn sâu sắc về vấn đề này.

]]>
Nâng cao thu nhập nhờ phát triển ngành măng cho phụ nữ dân tộc thiểu số Lào Cai https://saoviet.info/nang-cao-thu-nhap-nho-phat-trien-nganh-mang-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-lao-cai/ Mon, 04 Aug 2025 07:15:51 +0000 https://saoviet.info/nang-cao-thu-nhap-nho-phat-trien-nganh-mang-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-lao-cai/

Ở tỉnh Lào Cai, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số đã biến tiềm năng núi rừng thành hàng hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào xây dựng thương hiệu sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế xanh, bền vững và tạo việc làm cho lao động tại địa phương.

Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.
Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.

Trước đây, cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số các xã Văn Bàn, Chiềng Ken, Minh Lương, Nậm Chày, Nậm Xé gắn bó mật thiết với những rừng măng. Măng không chỉ giúp họ nuôi sống gia đình mà còn gìn giữ một phần văn hóa bản địa. Tuy nhiên, cuộc sống gắn liền với măng cũng đồng nghĩa với sự bấp bênh: sản lượng không ổn định, giá cả bị thao túng bởi thương lái và thiếu cơ hội vươn ra thị trường lớn.

Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng
Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương đã tham gia vào các dự án phát triển ngành măng, đưa sản phẩm từng bước chinh phục thị trường. Chị Triệu Thị Lai, người dân tộc Dao ở xã Nậm Xé, tỉnh Lào Cai, là một minh chứng sinh động cho hành trình thay đổi đó.

Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.
Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.

Suốt nhiều năm, cuộc sống của chị gắn với những nhịp thở nơi rừng măng. Với 3-4 hecta rừng, gia đình chị dựa vào những mùa thu hoạch măng để mang lại phần lớn thu nhập hằng năm. Tuy nhiên, mọi thứ bắt đầu thay đổi từ năm 2020, khi chị tham gia Dự án Thúc đẩy Bình đẳng Giới thông qua Nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Nông nghiệp và Phát triển du lịch.

Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.
Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.

Thông qua dự án, chị được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, cải tạo đất, giúp tối ưu hóa việc trồng măng, tăng năng suất và chất lượng măng. Đặc biệt, chị đã tìm được đầu ra mới ngoài địa phương. Việc bán măng ra các tỉnh lân cận đã giúp giá măng đáng kể, từ 25.000 đồng/kg lên 35.000 đồng/kg măng đã bóc vỏ. Nhờ đó, thu nhập từ măng của gia đình chị tăng từ 20 triệu đồng một vụ lên 30 triệu đồng một vụ cho diện tích trồng 3 hecta.

Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết
Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết

Năm 2024, chị Triệu Thị Lai thực hiện mục tiêu dài hơi hơn, từ một người nông dân trồng măng, chị quyết tâm gây dựng một mô hình kinh tế tập thể quy mô nhỏ, do chính những người phụ nữ dân tộc thiểu số làm chủ. Nhận được sự đồng hành của chính quyền địa phương, của các cấp Hội phụ nữ, Công ty Tư vấn giải pháp Nông nghiệp và Du lịch CRED, vợ chồng chị Lai cùng 9 hộ gia đình khác trong xã đã thành lập Hợp tác xã Măng Nậm Xé.

Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn
Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn

Thông qua hợp tác xã, các hộ dân có cơ hội được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật canh tác, bóc vỏ và thu hoạch măng, đồng thời ký kết hợp đồng lâu dài với một công ty thu mua. Đây là những bước tiến quan trọng giúp các thành viên trong hợp tác xã, từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc vào thương lái.

Sự thành công và chuyển biến tích cực trong gia đình chị Lai và các hộ lân cận đã tạo động lực mạnh mẽ cho những người phụ nữ khác ở các xã lân cận, thúc đẩy họ chủ động thành lập các hợp tác xã riêng, nắm bắt cơ hội từ giá trị đang ngày càng tăng lên của ngành măng.

Tại xã Nậm Chày, Hợp tác xã Măng Dần Thàng do chị Hà Thị Thu Hương làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc cũng đang tạo dựng cơ hội kinh doanh và việc làm ổn định, bền vững, giúp bà con vùng núi khó khăn vươn lên thoát nghèo. Hợp tác xã Măng Dần Thàng được thành lập vào tháng 8/2024 với tổng số 15 thành viên, 100% đều là chị em phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương.

Hợp tác xã hiện nay đang liên kết sản xuất măng với 4 tổ hợp tác, bao gồm 161 hộ dân tại xã Dần Thàng. Năm 2024, Hợp tác xã đã ký kết thỏa thuận hợp tác 10 năm với Công ty Kim Bôi về việc thu mua sản phẩm măng đạt chất lượng do Hợp tác xã sản xuất.

Được tham gia các chương trình tập huấn, chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản măng để hình thành chuỗi chế biến khép kín, tiêu thụ ổn định, hợp tác xã Dần Thàng đã đầu tư 400 triệu đồng xây dựng nhà máy 160m², có thể xử lý tới 1.000 tấn măng tươi mỗi năm.

Chặng đường hình thành, phát triển hợp tác xã của chị Triệu Thị Lai, chị Hà Thị Thu Hương cho thấy sự cần thiết của sự liên kết, hợp tác đồng hành giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và nhà nước, trong quá trình đưa sản phẩm của núi rừng tiếp cận với thị trường trong nước.

Tạo việc làm và mở ra cơ hội phát triển kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số là một trong những mục tiêu quan trọng của các dự án phát triển ngành măng. Không chỉ hướng tới lợi nhuận, mô hình hợp tác xã măng còn mang giá trị xã hội lớn.

Từ chỗ lao động đơn lẻ, manh mún, người dân, nhất là phụ nữ dân tộc thiểu số được tổ chức sản xuất bài bản, có thu nhập ổn định, có cơ hội học hỏi và thể hiện vai trò lãnh đạo.

Nhờ những thay đổi tích cực trong ngành măng cùng với quyết tâm không ngừng nghỉ của những người phụ nữ như chị Triệu Thị Lai và chị Hà Thị Thu Hương, những ngọn măng trong rừng núi Lào Cai không chỉ đơn thuần là kế sinh nhai mà còn góp phần tạo nên cho sự phát triển bền vững cho cộng đồng.

Tại các vùng miền, người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng đặc sản vùng cao với tiêu chuẩn an toàn, truy xuất nguồn gốc và giá trị văn hóa đi kèm. Những sản phẩm măng rừng với vị ngọt thanh, độ giòn đặc trưng và được chế biến theo quy trình sạch của Lào Cai đang dần khẳng định vị thế không chỉ tại các chợ truyền thống, mà có mặt tại các hội chợ, trên quầy kệ của các siêu thị, và trên các nền tảng bán hàng thương mại điện tử.

Tiếp nối hành trình phát triển kinh tế hàng hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi, cần có chính sách dài hạn từ Nhà nước, từ Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc hỗ trợ hạ tầng sản xuất, vốn tín dụng ưu đãi, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại và bảo hộ thương hiệu. Quan trọng hơn cả là niềm tin vào năng lực của những người phụ nữ vùng cao, trao cho họ cơ hội để góp sức phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

]]>